Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2014

Vai trò đen tối của Trung Quốc tại Hội nghị Geneva 1954

Vai trò đen tối của Trung Quốc tại Hội nghị Geneva 1954

Cách đây 60 năm, ngày 20/7/1954, Hiệp định Geneva về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được kí kết. Đây là kết quả 9 năm kháng chiến anh dũng, gian khổ với bao mất mát hi sinh của nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân ba nước Đông Dương nói chung. Tuy nhiên, thắng lợi đã không trọn vẹn do bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ, đặc biệt do những âm mưu, ý đồ xấu xa của”người bạn lớn” Trung Quốc.


Năm 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia đi vào giai đoạn quyết định, vấn đề giải pháp cho cuộc chiến tranh đã được đặt ra. Ngay từ lúc đó, tháng 8/1953, Chu Ân Lai đã tuyên bố: “Đình chiến ở Triều Tiên (có nghĩa là duy trì chia cắt Triều Tiên làm hai miền) có thể dùng làm mẫu mực cho những cuộc xung đột khác”.


Tháng 4/1954, khi phía Pháp đã không còn muốn một hành động quân sự nào nữa và cuộc đấu tranh của nhân dân ba nước Đông Dương đứng trước triển vọng giành được thắng lợi trọn vẹn, trong cuộc họp giữa các đoàn Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc chuẩn bị cho Hội nghị Geneva, Chu Ân Lai răn đe: “Trung Quốc không thể công khai giúp Việt Nam được trong trường hợp cuộc xung đột ở đây mở rộng”.











Quang canh Hoi nghi Geneva
Quang cảnh Hội nghị Geneva

Đoàn Việt Nam do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng đến Geneva với lập trường rất rõ ràng: Pháp buộc phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân về nước; các nước phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam là độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; đại biểu Chính phủ kháng chiến Lào, Campuchia tham gia như các bên đàm phán; Lào có hai vùng tập kết của lực lượng kháng chiến ở phía Bắc giáp Trung Quốc – Việt Nam và ở Trung Hạ Lào; lực lượng kháng chiến Campuchia cũng có hai vùng tập kết ở Đông – Đông Bắc và phía Tây Nam sông Mekong.


Tuy nhiên, lấy thế là nước viện trợ chủ yếu cho Việt Nam, vin cớ “làm thất bại sự phá hoại của Mỹ”, và lợi dụng việc Pháp không muốn đàm phán trên thế yếu với Việt Nam, Trung Quốc đã tự đứng ra thương lượng trực tiếp với Pháp về các giải pháp cho chiến tranh và chủ động đưa ra những điều kiện nhân nhượng với Pháp mà không tham khảo ý kiến của Việt Nam.


Trung Quốc chủ trương giải quyết vấn đề quân sự trước mà không nói gì đến giải pháp chính trị; chủ trương chia cắt lâu dài Việt Nam làm hai miền với giới tuyến có lợi cho Pháp (thậm chí đưa ra phương án bỏ cả Thủ đô Hà Nội, đường số 5 và Hải Phòng); không đồng ý để đại biểu Chính phủ kháng chiến Lào và Campuchia đến Hội nghị Geneva cùng với đại biểu Việt Nam đàm phán với Pháp; công nhận Chính phủ Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia (tay sai Pháp), đòi quân đội nước ngoài rút khỏi Lào và Campuchia mà không nói gì đến bảo vệ thành quả cách mạng của hai nước này… Đổi lại những nhân nhượng ấy, Trung Quốc chỉ yêu cầu Pháp không để có căn cứ quân sự Mỹ ở Đông Dương.


Ngày 30/5/1954, trong bức điện gửi Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và sao gửi Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chu Ân Lai đã đưa ra phương án lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến hai miền, “nếu không được thì sẽ lấy Hải Phòng làm hải cảng tự do cho Pháp đóng một số quân ở gần đấy, nếu không được nữa thì thì đem đường số 5, Hà Nội và Hải Phòng làm khu công quản và phi quân sự…”.


Ngày 17/6/1954, trong cuộc tiếp xúc với Thủ tướng Pháp Bidault, Chu Ân Lai đưa ra ý kiến: “Trung Quốc có thể chấp nhận Việt Nam có hai chính quyền (Việt Nam DCCH và Chính phủ Bảo Đại); công nhận Chính phủ Vương quốc Lào và Chính phủ Vương quốc Campuchia, từ bỏ yêu cầu có đại biểu Chính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Campuchia tham gia Hội nghị, quân đội nước ngoài kể cả quân tình nguyện Việt Nam phải rút khỏi Lào và Campuchia”.


Ngày 23/6, Chu Ân Lai lại nói với Trưởng đoàn Pháp Mandes France: “Chia Việt Nam thành hai miền cùng tồn tại hòa bình, giải quyết vấn đề quân sự trước (không nói gì đến vấn đề chính trị), tách rời giải quyết vấn đề Lào, Campuchia với vấn đề Việt Nam. Trung Quốc sẵn sàng công nhận ba nước này trong Khối Liên hiệp Pháp… Đổi lại, Trung Quốc chỉ yêu cầu không có căn cứ quân sự Mỹ ở Đông Dương”.


Đầu tháng 7/1954, trong cuộc gặp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Quốc), khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chí ít phải giành cho được vĩ tuyến 16 như đã có tiền lệ khi Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật năm 1945, Chu Ân Lai trả lời: “… Vì ở xa không có điều kiện trao đổi, nếu việc đấu tranh xác định ranh giới tạm thời gặp khó khăn, vạn bất đắc dĩ phải chọn vĩ tuyến 17, mong Hồ Chủ tịch chú ý vấn đề quan trọng nhất hiện nay là tranh thủ cho được hòa bình và những điều kiện để hòa bình thống nhất Việt Nam”.


Ngày 10/7/1954, Chu Ân Lai điện gửi Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gây sức ép: “… Có những điều kiện công bằng và hợp lí để Chính phủ Pháp có thể nhận được để đi đến Hiệp định trong vòng 10 ngày. Điều kiện đưa ra nên giản đơn, rõ ràng để dễ đi đến hiệp thương, không nên làm phức tạp, lôi thôi để tránh thảo luận mất thì giờ, kéo dài đàm phán để cho Mỹ phá hoại”.


3 giờ 45 phút ngày 21/7/1954, ba hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Lào, Campuchia được kí kết; ngày hôm sau công bố Tuyên bố chung của Hội nghị gồm 13 điểm. Bên cạnh những kết quả và thắng lợi quan trọng, do sự thỏa hiệp của các nước lớn với vai trò chủ yếu của Trung Quốc, Hiệp định Geneva chưa phải là một thắng lợi trọn vẹn cho cả Việt Nam, Lào và Campuchia.


Chỉ bằng một nét bút, Việt Nam đã bị chia cắt giả tạo thành hai miền; giới tuyến phân vùng chưa thật thỏa đáng; thời gian tổng tuyển cử lùi đến 2 năm nhưng rồi cũng bị phá bỏ. Chỉ giành được khu tập kết cho Pa-thét Lào ở hai tỉnh, không đạt được việc điều chỉnh vùng đóng quân cho Khơ-me It- xa-rắc. Chính điều này đã gây những “lăn tăn”, hiểu nhầm cho phía bạn Campuchia trong một thời gian dài.


Ngày 22/7/1954, 24 giờ sau khi Hiệp định được ký kết, Chu Ân Lai tổ chức bữa cơm tối, mời đại biểu Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia và đại biểu hai miền Bắc, Nam Việt Nam. Tại bữa cơm, Chu Ân Lai nói với đại biểu Việt Nam cộng hòa Ngô Đình Luyện: “Tại sao không đặt một cơ quan đại diện (nguyên văn là “công sứ quán”) tại Bắc Kinh”? Khi thấy đồng chí Phạm Văn Đồng giật mình vì đề xuất bất ngờ này, Chu Ân Lai nói tiếp: “Tất nhiên Phạm Văn Đồng gần gũi hơn chúng tôi về mặt tư tưởng nhưng điều đó không loại trừ việc có đại diện Nam Việt Nam tại Bắc Kinh”.


Bình luận về ý đồ của Trung Quốc tại Hội nghị Geneva, Paul Mus, nguyên Cố vấn Cao ủy Đông Dương của Pháp đồng thời là một học giả nổi tiếng về Việt Nam nói: “Trung Quốc nhân nhượng với Pháp là không để cho Việt Nam làm chủ hoàn toàn Đông Dương”. Trong cuốn Kẻ thù anh em, nhà sử học Nayan Chanda viết: “Trung Quốc ủng hộ sự tồn tại của hai Việt Nam và nói chung mong muốn có một đa quốc gia tại biên giới của nó. Trung Quốc muốn bằng mọi cách duy trì một Đông Dương bị chia cắt và không có các cường quốc lớn ở đây”.


Thiết nghĩ, không cần phải bình luận gì thêm!


Nguyễn Đăng Song



.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH

Liên hoan tuyên truyền viên dân số cơ sở năm 2012

Liên hoan Tuyên truyền viên Dân số cơ sở năm 2012 đã được tổ chức tại ba khu vực: ngày 10/10/2012 tại phía Nam (tỉnh Bạc Liêu), ngày 24/10/2012 tại miền Trung (tỉnh Phú Yên) và ngày 7/11/2012 tại phía Bắc (tỉnh Yên Bái). Mục tiêu của Liên hoan là tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác DS-KHHGĐ giai đoạn 2011-2020 nhân các sự kiện kỷ niệm Ngày Dân số Thế giới, Ngày Dân số Việt Nam và Tháng hành động quốc gia về Dân số năm 2012. Tiếp đó là nâng cao kiến thức, kỹ năng tuyên truyền vận động và truyền thông thay đổi hành vi về DS-KHHGĐ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách dân số và cộng tác viên dân số/y tế cơ sở, đồng thời tạo phong trào thi đua trong đội ngũ làm công tác DS-KHHGĐ góp phần thực hiện các mục tiêu DS-KHHGĐ năm 2012.

Đây là một sự kiện truyền thông đặc biệt, là ngày hội lớn, là nơi hội tụ, là dịp để đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng tác viên, tuyên truyền viên dân số các tỉnh, thành phố gặp gỡ, giao lưu, trao đổi mô hình hiệu quả, kinh nghiệm trong thực tiễn công tác DS- KHHGĐ.

Tất cả các đội tham gia Liên hoan đều phải trải qua 2 phần thi “Chào hỏi” giới thiệu về đội và những đặc trưng của địa phương và Tiểu phẩm tuyên truyền về những vấn đề mới, những khó khăn thách thức của công tác DS-KHHGĐ. Theo đánh giá của ban giám khảo, các tiết mục tham gia Liên hoan được đầu tư và sáng tạo nên phong phú về nội dung và hình thức thể hiện, đã phản ánh được những nét nổi bật, đặc trưng về văn hóa của vùng miền trong công tác DS-KHHGĐ; những thành tựu đã đạt được cũng như những khó khăn vất vả của đội ngũ cán bộ chuyên trách dân số xã và cộng tác viên dân số thôn bản trong khu vực.

Qua 2 phần thi, 63 đội tuyên truyền viên dân số của các tỉnh, thành phố đã mang đến Liên hoan những màn chào hỏi ấn tượng, giới thiệu được đầy đủ về các thành viên trong đội, cùng kết quả thực hiện công tác DS-KHHGĐ và về công tác truyền thông DS-KHHGĐ của địa phương mình. Nhiều địa phương đã thể hiện thành công đề tài nâng cao chất lượng dân số bằng phương pháp sàng lọc trước sinh, sơ sinh, chống tảo hôn, không sinh nhiều con.

Không chỉ làm tốt màn chào hỏi, các tuyên truyền viên dân số còn rất xuất sắc khi hoá thân thành diễn viên trong các vai diễn ở phần thi tiểu phẩm. Với tài năng diễn xuất, các tuyên truyền viên đã mang đến nhiều sự bất ngờ cho ban giám khảo và khán giả bởi vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt và sự thể hiện hài hước, dí dỏm qua những câu chuyện dân số có thực. Những tiểu phẩm mang đậm tính giáo dục được các đội thể hiện xuất sắc trong phần thi tiểu phẩm. Qua 02 phần thi, Ban tổ chức đã chọn ra các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc để trao giải.

Kết quả, tại khu vực miền Nam, giải Nhất được trao cho đội Bình Dương; giải Nhì được trao cho đội Bạc Liêu và Thành phố Hồ Chí Minh; giải Ba được trao cho đội Tiền Giang, Đồng Nai và Cần Thơ. Các đội còn lại đồng giải Khuyến khích. Ngoài ra, Ban tổ chức còn trao 05 giải cá nhân cho các thí sinh là tuyên truyền viên hay nhất tại Liên hoan. Kết thúc Liên hoan tại khu vực miền Trung, Giải Nhất thuộc về đội Lâm Đồng. Đội Nghệ An, Bình Định đoạt giải Nhì. Hai giải Ba thuộc về đội Quảng Nam và Phú Yên. Các đội còn lại nhận giải Khuyến khích. Ban tổ chức cũng đã trao tặng 6 giải cá nhân tiêu biểu cho 6 đơn vị. Liên hoan tuyên truyền viên dân số cơ sở khu vực phía Bắckết thúc với giải Nhất thuộc về đội Phú Thọ, giải Nhì thuộc về đội Hà Nội, Thanh Hóa, Quảng Ninh; Giải Ba thuộc về Lào Cai, Yên Bái, Nam Định, Thái Nguyên. 18 đội còn lại nhận giải Khuyến khích. Ngoài ra, Ban tổ chức đã trao 8 giải phụ cho tuyên truyền viên dân số trẻ tuổi nhất, nhiều tuổi nhất, diễn xuất tốt nhất…

Phát biểu tại Liên hoan các khu vực, Lãnh đạo Tổng Cục DS-KHHGĐ đã hoan nghênh và cảm ơn lãnh đạo, cán bộ, cộng tác viên ngành DS-KHHGĐ các tỉnh, thành đã cùng tề tựu tham dự liên hoan, đồng thời nhấn mạnh những thành quả to lớn mà ngành đạt được suốt thời gian qua luôn được tạo ra bởi những cộng tác viên dân số đã không quản gian khổ đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng. Lãnh đạo Tổng cục cũng gửi lời cảm ơn đến cấp ủy, chính quyền các tỉnh đã hỗ trợ tổ chức Liên hoan Tuyên truyền viên Dân số cơ sở tại các khu vực.

Ba cuộc Liên hoan tại 3 khu vực đã lựa chọn ra những tiết mục xuất sắc nhất đưa về Hội thi Liên hoan tuyên truyền viên dân số cơ sở toàn quốc được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 10-11/12 nhân dịp Tháng hành động quốc gia về Dân số và Ngày dân số Việt Nam 26/12.

Cũng tại các khu vực, ba vấn đề lớn của hoạt động DS-KHHGĐ gồm: quy mô dân số, cơ cấu dân số và chất lượng dân số đã được các đại biểu chia sẻ tại hội thảo “Nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động truyền thông trực tiếp về DS-KHHGĐ tại cơ sở”. Các đại biểu nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác truyền thông, đặc biệt là truyền thông trực tiếp tại cơ sở, trong bối cảnh hiện nay và thời gian tới với những nhiệm vụ khó khăn hơn.